Hầu như bất cứ vùng miền nào của Việt Nam, tiếng dạ, thưa, hoặc những kính ngữ ít nhiều đều được sử dụng như là một cách thể hiện sự lễ phép, kính trên nhường dưới, sự trọng thị, lẽ nhún nhường, giữ sao cho lời ăn, tiếng nói của mình dễ nghe. Lời nói đã trở thành tiêu chuẩn để đánh giá nhân cách con người, trong ca dao có câu “Người thanh tiếng nói cũng thanh/Chuông kêu chuông đánh bên thành cũng kêu”...
Chẳng phải tự nhiên mà trẻ em từ khi mới bi bô đã phải học nói “dạ” khi mẹ gọi, lớn lên một chút thì phải biết “thưa bà con đi học”, “thưa bố con mới về”... Ra ngoài gặp người lớn thì phải chào hỏi lễ phép, được hỏi chuyện thì cũng phải dạ thưa ở đầu môi. Một lời nói có “dạ”, có “thưa” tuy đơn giản nhưng lại mang đến một cảm giác dễ chịu và sự tôn trọng với người đối diện.
Chợt nhớ đến những bản tin tức trên báo chí gần đây về những vụ án mạng xảy ra chỉ vì hơn thua nhau lời ăn, tiếng nói, hoặc có những nhóm thiếu niên sẵn sàng tìm cho ra kẻ đã dám nói xấu, trêu tức mình trên mạng để thanh toán dẫn đến án mạng hoặc phạm tội hình sự. Trên xe nơi công cộng không thiếu cảnh nói to, chen lấn, xô đẩy, ồn ào. Những tiếng dạ thưa đó bây giờ dường như ít dần đi…
Người Việt ta vốn ưa sự nhẹ nhàng, thanh lịch, nhất là trong lời ăn tiếng nói, đối nhân xử thế. Nét đẹp văn hóa này cần được chuyển giao qua nhiều thế hệ, tạo nên gia phong trong mỗi nếp nhà. Những lời nói tốt đẹp sẽ nuôi dưỡng lòng nhân ái nơi mỗi con người, tạo nên lối sống chan hòa, giàu tình cảm và sự gắn kết cộng đồng, quê hương. Đó chính là di sản văn hóa phi vật thể quý giá cần được bảo tồn, giữ gìn, truyền lại cho các thế hệ, tạo thành bản sắc văn hóa con người Việt Nam.
Gửi phản hồi
In bài viết