Lời nói cũng được xem là thước đo “người ngoan” được thể hiện qua câu ca: “Vàng thì thử lửa, thử than/Đồng thau thử tiếng, người ngoan thử lời”. Hai tiếng “Dạ, thưa” ngọt ngào, lễ phép cũng được đề cập đến trong dân ca xứ Huế “Hai thương ăn nói mặn mà có duyên”, “Bảy thương nết ở khôn ngoan”. Đến nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, ông nhắn gửi thông điệp những lời tốt đẹp sẽ là hoa nở trên môi mỗi người: “Em sẽ là mùa xuân của mẹ/Em sẽ là màu nắng của cha/Em đến trường học bao điều lạ/Môi hé cười nở những nụ hoa”.
Trong văn hóa truyền thống tốt đẹp của người Việt về giao tiếp, ứng xử, hai tiếng “Dạ, thưa” luôn được lấy làm đầu. Bởi chỉ qua cách ăn nói ứng xử lễ độ, nhẹ nhàng cũng có thể đánh giá phẩm cách của một người. Trong gia đình, con cháu “Dạ, thưa” khi xưng hô với ông bà, cha mẹ, anh chị em, cô, dì, chú, bác… Trong trường học, trò “Dạ, thưa” với thầy, cô. Ở nơi công sở hay ra ngoài xã hội, mỗi người cũng giữ hai tiếng “Dạ, thưa” khi giao tiếp, ứng xử với nhau sẽ bày tỏ được sự tôn kính, lễ phép, tạo được thiện cảm, góp phần xây dựng mối quan hệ tốt đẹp trong gia đình, cộng đồng. Đó chính là những kính ngữ trong văn hóa giao tiếp tối thiểu ở bất cứ môi trường nào cũng cần phải có.
Thế nhưng, ngày nay cùng với sự phát triển của xã hội, việc giữ gìn nét đẹp trong giao tiếp ứng xử gặp nhiều thách thức, hai tiếng “Dạ, thưa” có biểu hiện vắng bóng hơn trong giao tiếp. Người ta ăn nói với nhau cộc lốc, chọc lỏn, không có chủ ngữ, không có kính ngữ.
Bởi vậy, gìn giữ hai tiếng “Dạ, thưa” trong lời ăn, tiếng nói hàng ngày cần có sự uốn nắn từ ông bà, cha mẹ đối với con trẻ, từ thầy cô đối với học trò. Trong gia đình, ông bà, cha mẹ cần làm gương trong lời nói cho con cháu. Trong trường học, chú trọng “Tiên học Lễ”, tức là trước tiên chú trọng rèn đạo đức, kỹ năng giao tiếp lễ phép, không chỉ chú trọng truyền đạt về kiến thức cho học trò.
Gửi phản hồi
In bài viết