Tôi đi khảo sát dọc làng Pua. Trời về đêm, sương muối giăng lành lạnh thấm ướt làn da. Giữa những mái nhà sàn nằm san sát nép mình lưng đồi, căn nhà tranh cuối làng hiện ra cô độc, lạc lõng…
Mấy chục năm đã qua, làng Pua không còn những nét chấm phá nguyên sơ như thời chiến tranh. Xa xa, núi Lang không còn những tán rừng thông xanh mướt gió reo vi vu. Năm tháng mây bay, bão giông vần vũ, mưa cứ rền rĩ rửa trôi mấy vạt đồi dưới chân núi, sấm giật mình, chớp buông cơn hờn giận. Nhưng sau bao nhiêu xoay chuyển đất trời, căn nhà nhỏ ấy vẫn luôn tồn tại. Dường như thời gian chẳng đủ sức xóa nhòa hết thảy mọi dấu tích. Đâu đó, người ta vẫn thấy những ẩn ức đau thương còn sót lại. Chỉ có điều khi được nhắc đến, đa số họ luôn tìm cách lảng tránh, giống bữa nọ tôi chỉ tay hướng ngôi nhà, hỏi đứa trẻ chạy chơi bên đường:
- Cháu biết lai lịch của nó không?
Thằng nhóc có vẻ do dự, mắt dáo dác nhìn quanh, phải tới lúc tôi dúi cái bánh ngọt vào tay, nó mới thắc mắc rụt rè:
- Chú hỏi làm gì?
- Thế cháu biết không?
- Không được lên tiếng… không được lên tiếng…
Thằng nhóc thì thầm khe khẽ rồi vụt chạy khiến tôi ngơ ngác. Chuyện gì đang xảy ra? Tại sao lại thế nhỉ? Ngôi nhà ấy đang giấu giếm điều gì mà ai cũng e ngại? Bàn chân tôi mạnh mẽ tiến lên khám phá vùng đất bí ẩn phía trước. Làng Pua hiện ra ngày càng rõ ràng với nhân số ít ỏi. Thỉnh thoảng, tôi thấy bà mẹ già bận rộn đút cơm cho đứa con to xác. Đôi tay gầy nhăn nhúm bưng bát cơm canh, miệng lẩm nhẩm dỗ ngọt “Nào A… nào… mẹ thương…” Những đứa con co quắp, rúm ró. Những cặp mắt trắng dã không tiêu cự. Kẻ ngồi. Người nằm. Họ vây quanh ánh đèn dầu leo lét...
Ngoài rìa làng là cái nghĩa trang chi chít bia mộ. Hễ mười rằm, mùng một hay ngày giỗ chung của làng thì người đông như trẩy hội. Nén hương thơm phảng phất mùi trầm. Đĩa cài hoa đỏ, miếng trầu cay. Người nối người dắt díu nhau niệm khúc kinh tưởng niệm, miệng nam mô a di đà phật, lầm rầm khấn cả ngày. Không khí trầm buồn nhúng ướt sẫm làng Pua. Núi Lang cao cao, gió lặng, cây đứng bóng…
Nhịp sống làng Pua dần trở nên quen thuộc trong mắt tôi bằng chuỗi hình dung khó tả thành lời. Từ trong đến ngoài, đâu đâu cũng nhuốm màu huyễn hoặc thần bí. Cảm xúc nghẹt thở nảy nở sinh sôi. Chúng lan tỏa theo từng tế bào thấm vào ngòi bút. Tôi muốn phác họa lại chi tiết buổi cúng lễ mà bàn tay lừng khừng đứng giữa không trung chẳng cách nào hạ xuống.
Hình ảnh căn nhà chợt thoáng hiện hư ảo. Đêm về khuya, trời tối thui như mực. Cánh cửa vào nhà rộng mở toang hoác giống hố đen, sâu đến khôn cùng…
* * *
Dạo gần đây, ngôi nhà tranh ở làng Pua bỗng rần rần lên “hot seach” trên mạng xã hội. Nhất là trong cộng đồng của những người ưa thích tìm hiểu các sự kiện linh dị thần quái. Họ đồn rằng chỗ đó có ma, rất nhiều ma. Chả thế không dưng những đoàn thám hiểm cứ nối nhau lần lượt mất tích.
Đỉnh điểm từ vài tháng trước, khi một nhóm sinh viên đến đây phát sóng trực tiếp vào ban đêm. Dẫu dân làng Pua kiệt lực ngăn cản nhưng họ vẫn bỏ ngoài tai. Thậm chí, vài người còn cười cợt nghĩ người làng này nhát gan quá thể. Tuy nhiên sáng hôm sau, nhóm sinh viên ấy ai cũng tái mép mặt mày, tóc tai rũ rượi. Mắt họ hằn những đường tơ máu, vừa chạy, vừa ú ớ khiếp sợ. Căn nhà phía sau, cửa chính mở toang hoang tối thui như miệng quái vật đang nhe nanh uy hiếp.
Hỏi họ có nhớ gì không thì người lại ngây ra như phỗng. Cái chi cũng chẳng nhớ. Live stream tối qua đang diễn ra bỗng mất sóng rè rè. Dù hình ảnh có phần nhiễu nhiễu nên rất khó hình dung nhưng những tràng hú hét thảm thiết kéo dài không dứt. Điều ấy kích thích sự tò mò của quần chúng vây xem. Ngày càng nhiều đoàn người tới khám phá, cũng càng nhiều chuyện ly kỳ tái hiện. Và cứ thế, chẳng biết từ bao giờ làng Pua lại trở thành điểm đen trên bản đồ du lịch tâm linh mạo hiểm của tỉnh khiến dân tình e ngại...
* * *
Những tư liệu lưu trữ về làng Pua hiện nay quá ít ỏi. Tôi xuống thư viện thị trấn tra khắp các sách biên niên sử của vùng cũng chỉ thấy dăm ba dòng chữ ngắn ngủi. Làng Pua ngày xưa từng có thời là vùng địch tạm chiếm. Những năm trước Cách mạng tháng 8, quân Nhật đóng ở khắp nơi, chúng bắt đàn bà con gái, chúng lùng bắt những người cộng sản yêu nước. Chiến tranh chỗ nào mà không có địch. Tôi thở dài khép lại trang sách. Ngọn lửa hiếu kỳ bắt đầu nhen nhúm. Nó thôi thúc tôi tiếp tục tìm kiếm. Chẳng hiểu sao tôi luôn tin mình sẽ giải mã được bí mật ma quái về căn nhà nơi ấy.
Hôm nọ họp tòa soạn, anh tổng biên tập đột nhiên nảy ra ý tưởng kêu ai rảnh rỗi đi tới đó làm phóng sự điều tra giải mã sự kiện huyền bí trên mạng. Cả phòng đều lắc đầu chối đây đẩy. Người kêu bận bài chuyên đề. Người vướng phóng sự dài kỳ đang dang dở. Không ai nguyện ý nhận việc này cho tới lúc anh điểm tên tôi nhắc khéo, em đi nhé, hù tôi giật bắn mình vâng dạ. Tính kiếm cớ ở nhà mà thoạt nhiên đầu óc chợt rỗng tuếch. Chữ nghĩa bay đâu mất. Mạch não như đóng băng hết mọi luồng suy nghĩ vẩn vơ. Khi tôi hồi thần thì cuộc họp đã kết thúc.
Vài đồng nghiệp vội thở phào nhẹ nhõm. Họ cứ nhìn tôi bằng ánh mắt thương hại, lấp lửng nửa muốn nói lại thôi. Riêng anh bạn thân là đến gần, khoác vai trách móc nhẹ nhàng:
- Mày dại thế.
- Biết sao giờ?
Anh bạn im lặng lắc đầu. Tôi lên mạng tra địa chỉ làng Pua. Công cuộc chuẩn bị cho hành trình giải mã được thực hiện kỹ càng. Đầu tiên tôi đi chùa xin một lá bùa bình an, sắp xếp chút hành lý, đồ dùng cá nhân. Mọi thứ gần như xong xuôi hoàn hảo. Duy chỉ việc tra tư liệu hiện vẫn khó khăn chồng chất. Ờ mà biết sao giờ? Nhận rồi phải làm. Tay tôi lướt nhanh theo từng kệ sách. Hết biên niên sử lại sang một ít sách văn hóa, địa lý hay văn học dân gian truyền miệng địa phương. Bất ngờ, ánh mắt tôi dừng trên những trang sách hồi ký chiến trường:
“Ngày… Tháng… Năm…
Địch càn quét ráo riết. Chúng đem lô cốt trồng đầy khắp xóm. Người làng An, làng Thượng đã bị chúng bắt bớ, tù đày. Anh Toản, anh Tân chết cả rồi. Máu chảy đỏ khắp nơi...”.
“Ngày… Tháng… Năm…
Mình thấy lũ khốn đó đang gầm rú. Chúng mang súng đi bắn trẻ con. Thằng Ninh, con Hường chết cả rồi. Tay mình vun nấm mộ. Máu thấm đỏ luênh loang…”.
“Ngày… Tháng… Năm…
Mình núp trong bồ gạo. Thằng việt gian xuyên mũi dao trúng vai. Đau quá. Xót quá. Máu hình như đã chảy. Hạt gạo bết bát dính vào da thịt. Chúng bắt chị Cả đi rồi. Chúng giết cả thằng nhỏ. Mình không làm gì được… không làm gì được…”.
Những con chữ vẽ khung cảnh ký ức khiến tôi sững người chết lặng. Lòng bồi hồi bao cảm xúc xốn xang. Chiến tranh có khi nào bình yên? Vợ mất chồng. Con chẳng biết mặt cha. Mẹ tiễn con đi mòn mỏi đợi chờ. Làng An, làng Thượng toàn mấy địa danh ngay sát làng Pua. Tôi nhìn thời gian ghi chép. Lạ thật! Hồi ấy đã gần cuối kháng chiến chống Pháp, nghe nói một số nơi đã có chính quyền cách mạng đóng quân. Giặc rút về cố thủ vùng lòng chảo Điện Biên Phủ.
Sao địch vẫn càn quét? Chả nhẽ chúng không biết mệt sao? Những bản làng vẫn rơi vào tầm ngắm. Máu lại đổ thành dòng, đỏ như sông…
“Ngày… Tháng… Năm…
Tối qua giặc lại tràn vào làng. Ngay lúc nhà bác Liên đang ăn cơm. Không ai kịp chạy trốn. Căn nhà bị chúng bắn phá tan tác, mìn nổ tơi bời. Mình tìm mãi mà chẳng tìm được gì, chỉ còn mỗi hố sâu…”.
“Ngày… Tháng… Năm…
Ngọc chết rồi. Đồng đội nói em trúng đạn khi đi trinh sát. Họ sơ cứu nhưng mất máu quá nhiều. Mình nhớ Ngọc hẹn mình chờ ngày đất nước hòa bình, hai đứa sẽ cùng về quê ra mắt bố mẹ. Nhưng bây giờ…”.
Mắt của tôi mờ dần theo trang giấy. Chút gì ấy dâng lên mí mắt rồi nghẹn xuống từng hồi nức nở. Thước phim ký ức chậm chạp chiếu nốt những hình ảnh vào giây phút cuối cùng.
“Ngày… Tháng… Năm…
Súng vẫn rền vang khắp trốn. Nghe bảo giặc đang càn vào làng. Chúng đem quân vây kín xung quanh tính cắn trả trận cuối. Chiến dịch Điện Biên đang bước vào hồi kết. Mình phải tìm được đường lên chiến khu đây. Dân làng đang đợi mình. Đồng đội đang đợi mình. Nhất định phải tìm được đường ra… nhất định…”.
Tôi khép những trang nhật ký đẫm nước mắt. Hóa ra, làng Pua cũng từng nằm trong vùng địch tạm chiếm mà còn gánh chịu bao đợt giặc càn quét vô tội vạ. Máu đã chảy trên vai người thiếu nữ. Máu cứ rơi trên lưng áo bộ đội. Giặc dù đã rút quân thì trên đường chúng di chuyển vẫn đạp lên bao xác đồng bào. Người chiến sĩ ấy có thành công không nhỉ? Tôi lật tung tất cả những tư liệu cũng không thấy kết quả rõ ràng. Mấy chục năm làng Pua còn đó nhưng ai mà biết chuyện gì đã xảy ra…
Tôi ngồi ngẩn người trong thư viện nhìn mây trôi ngoài cửa sổ. Nắng vàng như rót mật. Trời xanh rộng thênh thang. Phía xa kia, làng Pua nằm dưới chân núi Lang hùng vỹ, khói lam chiều bảng lảng trông mới thật yên bình…
* * *
Mẹ không muốn tôi tới làng Pua. Hay đúng hơn những gì liên quan tới chiến tranh thì bà đều chẳng muốn nhắc. Đời mẹ chìm nổi trong bom đạn. Đời bố u mê cùng ký ức đớn đau. Người đàn ông bước ra từ cuộc chiến mang một đôi chân tập tễnh với vết sẹo trên trán. Tuổi thơ tôi lớn lên cùng nỗi nhọc nhằn, tảo tần của mẹ, ngày ngày thấy bố ôm đầu nằm rên rỉ triền miên.
Bố tôi hồi đó, thân cô thế cô chẳng có gì, tuổi thì quá lớn lại còn là thương binh. Mẹ tôi gái nhỡ lỡ thì nghe lời bà ngoại bảo góp gạo thổi cơm chung. Hai người chẳng thân thuộc, cách nhau đâu chừng mười mấy, hai mươi tuổi cứ thế buộc chặt lấy nhau. Những đứa trẻ ra đời lớn lên lay lắt như nhành cỏ dại trong âm hưởng của bom đạn chiến tranh, mới tý tuổi đã phải hiểu bao rạn nứt trong nhà, nếm cảnh trốn chui, trốn lủi trong hầm tối om om. Rồi mấy buổi chiều mẹ đi làm hợp tác về nhìn cảnh đàn con nheo nhóc, thêm ông chồng già xuống sức say xỉn, chỉ biết than thở:
“Giời ơi là giời, có ai khổ như tôi không?”.
Ngày qua ngày, mặt trời mọc rồi lặn. Mẹ tảo tần lưng một còng thêm. Bố vẫn đau đáu cùng những cơn say ú ớ. Thật may hồi bao cấp, mẹ có tay nghề nấu rượu lậu, nếu không chẳng biết rượu đâu cho bố uống. Mười hai tháng, ông chỉ tỉnh táo đâu đó được đôi lần. Một bận là ngày đi gặp đồng đội vào chiều tháng Bảy. Bận khác, mẹ gói cho ông cái túi, một chú xe ôm chở ông đi ra tận ngoài cổng. Mẹ lặng lẽ nhìn theo. Tôi hỏi:
- Bố đi đâu hả mẹ?
- Mày ra mà hỏi ông.
Mẹ chạy vội vào nhà. Tôi thấy mắt bà đỏ. Những năm thiếu thời trôi qua cùng những lần biến mất định kỳ của bố. Tôi hỏi bao lần, mẹ mắng bấy nhiêu. Nhưng mắng thì mắng, khi màn đêm bao trùm mảnh sân nhỏ. Ánh đèn dầu leo lét cháy sáng góc nhà. Mẹ vẫn ngồi trầm ngâm đợi cửa. Đôi lúc mẹ còn cằn nhằn:
- Mưa gió thế này…
Những đêm đó ánh đèn sáng rất khuya. Gió lùa qua những vách tranh nghe thẽo thẹt day dứt. Lòng tôi băn khoăn. Bố đi đâu không biết? Cuối mùa mưa, khi dư âm tháng bảy vừa qua ông mới trở về…
Trong suốt thời thơ ấu vào tháng ngày chơi vơi đó, tụi nhỏ ở làng thường hay chạy theo tròng ghẹo trêu tôi:
- Bố mày đi kiếm em cho mày kìa…
- Bố mày có con rơi ở đâu đang đón về…
Dĩ nhiên, câu chuyện ấy chẳng bao giờ kết thúc bình yên. Người lớn thì không nói. Tôi để ý thấy lác đác cũng có những người đàn ông khác rời nhà trong tháng bảy. Họ đi lầm lũi. Bóng lưng chìm vào màn đêm. Bóng lưng chìm vào ánh sáng. Chỉ có tiến về phía trước. Cứ đi và đi…
* * *
Đêm tối trùm lên vùng trời Tây Bắc một khoảng không gian trầm buồn tĩnh mịch. Dế rủ rỉ kêu râm ran gọi bầy. Cánh đồng đen từng mảng. Văng vẳng quanh đấy vài con ếch “ộp ộp” hòa tấu giai điệu bi thương ai oán. Theo mấy lần khảo sát, dân làng Pua thường tụ tập nhau buôn chuyện ngoài hè, dưới bóng cây hay nhâm nhi nước chè tươi trên chiếc chõng tre kẽo kẹt. Toàn các bà, các mẹ, đặc điểm chung nhất cho những miền đất bước ra sau cuộc chiến...
Tôi sẽ không kể chi tiết cánh đàn ông đi đâu. Cũng như không ai đào sâu nguyên nhân làm đứa trẻ sinh ra dị dạng co quắp với cặp mắt trắng dã. Ấy là chuyện riêng của họ. Giống lý lẽ riêng khiến tôi bỏ qua bao lời ngăn cản để bước chân vào ngủ đêm ở căn nhà tranh. Mảnh sân cũ kỹ sạch bóng cỏ dại. Chắc người làng hay sang dọn dẹp. Nếu không sao nó gọn gàng quá? Ban nãy khi biết tôi sẽ ngủ lại đây qua đêm, mấy người bà con làng Pua bỗng ngần ngại khuyên giải:
- Mày gan quá con. Không sợ ma nó bắt à?
- Dạ không ạ.
Tôi lắc đầu cười, một bà cụ khác thì nhìn tôi e dè:
- Hay cháu ở nhà bà này? Đừng vào đó. Sợ lắm!
Thái độ của họ khiến tôi càng cảm thấy tò mò hơn. Khi tôi xách hành lý và đi. Dân làng Pua vẫn nài nỉ khuyên gàn ở sau. Bác trưởng thôn không khuyên nhủ giống những người khác, xong ông cứ nhìn chăm chú làm tôi thấy rùng mình. Nhà ở miền núi thường là nhà sàn, duy chỉ có căn nhà tranh lại ở trệt. Nhìn qua nó giống cái lán của dân đi rừng hơn là nhà, nhưng xét kỹ thì nó cũng đủ mọi kết cấu. Từ gian khách đến buồng ngủ, điều ấy càng làm nên sự đặc biệt và kỳ lạ.
Tôi chọn một khoảng trống giữa sân rồi dựng lều thám hiểm. Không biết đêm nay sẽ thế nào? Gió thổi Pua man mơn chớn da thịt. Những con chim kiếm ăn bay về núi Lang gọi bầy quang quác. Đêm nhuộm mình đen đặc luênh loang. Căn nhà tranh có lẽ đã để trống rất lâu. Kiến trúc làng quê thế kỷ trước được gìn giữ nguyên vẹn. Thậm chí cái bàn, cái ghế, chiếc giường tre hay chạn bát cũng y xì như cũ.
Khác chăng, nhà có thêm chiếc bàn thờ với khung ảnh trắng đen in hình người phụ nữ cười tươi tắn. Khói hương nghi ngút bảng lảng quyện quanh. Người phụ nữ ấy chắc là chủ nhân căn nhà. Tôi đoán vậy. Mà chị trẻ quá. Khéo chưa tới hai lăm. Tôi trông chị cười vẫn vương nét con gái hồn nhiên. Hay do là ảnh chụp ngày còn thiếu nữ. Cái bàn thờ này cũng lạ thật. Mấy bát hương lớn lại đặt bên một bát hương nhỏ xíu. Kiểu sắp xếp mà dù đã đi lấy tin hàng trăm nơi khác nhau thì tôi vẫn chưa từng gặp. Lạ lùng thật…
Cầm chiếc đèn pin, tôi lò dò thám hiểm xung quanh. Bóng tối lùng mùng che mờ tầm mắt. Ánh sáng yếu ớt từ chiếc đèn soi chẳng rõ mặt người. Đồng hồ điểm mười một giờ khuya. Chỉ một chút thanh âm the thé hoặc ồn ã từ xa truyền lại lúc này cũng đủ dọa tôi giật mình. Không gian trống vắng, gió lạnh sởn da, sợ hãi lẳng lặng nhân lên trong từng tấc tế bào. Gáy tôi chợt lạnh. Mồ hôi mẹ rủ mồ hôi con túa ra như tắm.
Tôi lần theo vách tường. Chân loạng quạng lê bước. Rốt cuộc bí ẩn ở đâu sao tìm mãi chưa ra manh mối. Bất ngờ, tiếng lạch cạch phía sau làm tôi nhảy dựng. Ánh đèn lia nhanh nhưng chẳng thấy gì. Chắc con chó, con mèo chạy qua chăng? Đêm vẫn đen đặc quánh. Màn đêm đáng sợ mà huyền diệu vẫn khiến người ta thất thần sợ sệt. Đột nhiên gáy tôi đau nhói, mắt lờ mờ tắt lịm ánh sáng. Bóng tối thăm thẳm phảng phất như trải dài vô biên bất tận.
Ai đó đang kéo tôi đi. Ai đó gọi bên tai. Ai đó… ai đó…
* * *
Súng nổ rung trời. Khói thuốc nồng nặc. Hơi khét lan tràn xông sặc sụa hai lỗ mũi. Tôi bị nhốt trong căn buồng nhỏ cùng với hai mẹ con. Bốn phía kín bưng, người ta có thể nghe tiếng bom đạn rền vang ngoài kia nhưng không thể nhận biết.
Trận đánh đang vào hồi khốc liệt.
Sát bên tôi là người phụ nữ tóc dài gầy trơ xương, quần áo rách rưới. Chị ta ôm một bé trai gầy gò vào sâu trong lồng ngực. Họ bỗng dưng xuất hiện dọa tôi sợ thót tim. Chốc lát yên ổn, tôi đưa tay chạm tới lại bất ngờ xuyên qua. Bàn tay như sương, như khói, mỏng manh vô hình tan rã giữa khoảng không. Chị ôm thằng bé rất chặt. Cả hai trốn dưới bồ thóc.
Khi những bàn chân sầm sầm chạy tới, họ đã núp thật sâu. Hạt thóc len lỏi rơi vào mũi miệng khó chịu nên thằng bé cựa quậy liên hồi. Người phụ nữ vội giữ chặt nó lại thì thầm khe khẽ “Không được lên tiếng”. Chiếc cót nhỏ hẹp, chật chội vô cùng. Lúc sau có tiếng đạp mạnh, cánh cửa căn buồng bị hất tung ra. Những bàn chân lại chạy sầm sập, có giọng người chửi bới, xì sồ bằng thứ ngoại ngữ xa lạ, cả giọng nam lơ lớ kiểu nghiện thuốc lá quanh năm.
Chăn màn bị vứt xuống đất. Các loại dụng cụ làm đồng như liềm, cuốc đổ nghe lẻng xẻng. Những bàn chân lại gần cót lúa khiến người phụ nữ trợn mắt hoảng sợ, chị ta ôm thằng bé chặt hơn, chặt hơn. Chị nhìn chăm chăm vành cót qua khe hở nhỏ xíu, tôi đứng ở bên thấy thứ gì đó nhen dần trong đáy mắt. Thời gian đang trôi đi. Tim tôi đập thình thịch, thình thịch. Không được. Không được lại đây…
Nhưng lưỡi mác sáng loáng, tiếng súng đùng đoàng dập tắt hết thảy hy vọng. Lưỡi mác vùn vụt đâm xuống, đâm xuống, trơn tuột không sức cản. Thằng bé bị thương đau đớn lồng lộn. Người phụ nữ vội giữ chặt hơn. Chị ta đưa bàn tay bịt chặt miệng thằng bé. Tôi thấy nó nhe răng cắn cản. Máu rỉ đỏ vành môi. Mũi mác vẫn đâm xuống, tiếp tục đâm. Mác cắm vào ngực. Mác xẹt qua vai. Người phụ nữ trợn mắt nhăn mày chịu đựng. Tay xé miếng vải bọc quanh lưỡi mác. Thời gian rề rề trôi qua chầm chậm. Khẩu hình chị ta cứ lặng lẽ thủ thỉ, chẳng rõ dặn dò ai.
“Không được lên tiếng…”.
“Không được lên tiếng…”.
Tôi đứng ở bên muốn ngăn lưỡi mác mà không được. Tràng cười dài quái đản chợt vang lên. Giọng tên việt gian lơ lớ khà khà:
- Có người ha ha.
Tấm nia che chắn mặt cót bị hất văng lên. Ánh sáng chói mắt cản trở tầm nhìn của tôi. Khi rõ ràng mọi thứ, tôi nhận ra đó là ba tên đàn ông, một kẻ hơi béo giống tạng người việt, còn lại hai kẻ thấp lùn da vàng như người châu Á. Chúng lôi xềnh xệch hai người mặc kệ chị ta la hét giãy giụa.
Một tên lôi xốc ngược thằng bé ra khỏi mẹ mặc kệ nó la hét bất lực. Tiếng gọi mẹ ơi, mẹ ơi vang hoài trong vô vọng. Mắt thằng bé lồi ra trắng ởn. Bộ xương gầy gò chẳng đủ sức nặng neo giữ cánh tay tên lính. Hắn ném nó vào tường, lầm bầm chửi rủa:
- Ngu ngốc! Chúng nó nghĩ trốn được sao? Tao biết thừa rồi, dấu chân đầy đất, mác thì dính máu tưởng lừa nổi tao à. Xem ông trị chúng mày, lũ đàn bà ngu ngốc… ngu ngốc…
Hai gã lính khác tây lôi người phụ nữ ra giữa nhà. Mình thằng bé ở lại, giữa một vầng hoa đỏ. Những bông hoa đỏ lịm bung nở trên vách tường, hằn vệt nối xuống sàn đất, rực rỡ ma mị. Ngoài nhà rộn ràng chuỗi thanh âm tục tĩu. Tôi đến gần thằng bé. Đôi mắt nó lồi trố, mở to không thể nhắm. Khuôn mặt thơ dại lắng đọng đau đớn. Liệu nó có hiểu chuyện gì đang xảy ra không? Hay nó sẽ dùng sự ngây thơ ấy mà nghĩ mẹ mình đang bận chơi một trò chơi gì đó mới lạ. Nó cứ nằm đấy. Hoa đỏ mọc liên tiếp thành quầng, thành bụi. Mắt nó trợn trừng trừng, tôi khép mãi không được…
Người phụ nữ cũng nằm yên trên sàn, những tên lính đang hùng hục tra tấn. Tiếng thanh âm ngân dài triền miên, dai dẳng. Chị ta ngếch đầu về cửa buồng, mắt trợn to giống hệt thằng bé. Chỉ khác rằng, trong đáy mắt chẳng có nét thơ ngây mà thay thế bằng nỗi niềm khó nói. Như nhắc nhở. Như van nài. Mặc những giày xéo trên thân thể tàn tạ, đớn đau thân xác chẳng thể làm chị ta để tâm. Người nằm co quắp, đầu ngóng trông cửa buồng.
Hai thằng lính vẫn đang hì hục. Công việc quen thuộc chúng đã thực hành nhiều lần tại những bản làng. Thứ ngoại ngữ xa lạ vang lên xì xà xì xồ. Một tên thì cầm súng bắn xối xả xung quanh. Nó bắn bồ thóc, bắn móc nhà, bắn tủ quần áo. Chợt như có thứ gì ghim vào chân tôi ngã quỵ, đầu đau như búa bổ.
Và hình như chưa thỏa đam mê, hắn cười khà khà rồi cầm súng đến gần chỗ thằng nhỏ. Nhìn săm soi giây lát, hắn dí sát khẩu súng lục đến bên đầu nó.
Đoàng…
Một bông hoa lại nở tung trên đất. Hắn liếm láp khóe môi. Khẩu súng tiếp tục di chuyển. Mỗi lần tiếng súng kêu, một bông hoa chớm nở. Chốc lát màu đỏ rực rỡ đã hòa chung với nhau thành một thềm nhà đầy hoa tuyệt đẹp.
Bàn chân tôi nặng nề. Cái thứ chết tiệt gì đó ghim trong trán, ghim vào chân thật khó chịu. Thằng lính mân mê khẩu súng. Bọn chúng tiếp tục xì xồ. Hắn đem nòng súng tiến lại gần bàn tay đang chới với hướng phía buồng.
Lại một tiếng đoàng…
Tí tách mưa rơi, hoa vẫn nở. Đỏ thắm mê người. Thơm nồng quyến rũ. Khi những tên lính đi, chị vẫn nằm lặng yên nơi đó. Cặp mắt lồi trố, đồng tử dần tan dã. Hơi thở thoi thóp yếu ớt. Chỉ những bông hoa đỏ rực lên rồi sẫm màu lạ thường bầu bạn. Tôi lết bàn chân đau nhức đến gần cố ôm chị vào lòng nhưng không được. Chỉ biết trơ mắt nhìn dòng chảy sinh mệnh mỏng manh trôi tuột qua kẽ tay. Tiếng bom đạn rền vang ai điếu. Tại sao? Tại sao tôi không thể chạm vào chị ta? Tại sao tôi hô hào mà chẳng ai nghe thấy? Tại sao giờ phút này chị ta vẫn thều thào không rõ dặn dò ai.
Không được lên tiếng…
Không được lên tiếng…
Tuyệt đối không được lên tiếng…
* * *
Giọng ai đó văng vẳng bên tai tôi. Người nào đang vỗ vỗ mặt, thúc giục tôi tỉnh dậy. Mí mắt nặng như đeo chì. Khi bờ mi hé mở tiếp nhận thứ ánh sáng chói mắt, chúng nhức mỏi biểu tình. Giây phút mọi thứ trở nên rõ ràng, tôi bắt gặp gương mặt nhăn nhúm của bác trưởng thôn và vài người dân làng Pua. Thấy tôi tỉnh táo hơn, có người khẽ hỏi:
- Cậu tỉnh rồi à?
- Dạ vâng. Sao cháu lại ở đây ạ?
- Cậu bị ngất. Là ông ấy thấy cậu nằm gục ngoài rìa làng nên đưa cậu về nhà.
Một bác gái chỉ tay về phía trưởng thôn. Ông ấy nhìn tôi đăm chiêu giây lát xong chợt đổi giọng cáu kỉnh:
- Cậu tỉnh rồi thì mau đi đi.
Thái độ quay ngoắt một trăm tám mươi độ khiến tôi rất ngạc nhiên. Thậm chí, ngay cả lúc tôi thu dọn hành lý lái xe rời làng Pua, tâm trí óc còn u mê ngơ ngác. Sao thế nhỉ? Rõ ràng họ còn đang rất niềm nở cơ mà. Tôi lắc đầu xua tan những mối nghi hoặc khó gỡ. Xe vun vút lao nhanh. Làng Pua trượt lại phía sau ngày càng nhỏ, mờ dần và biến mất sau lũy tre xanh ngát bốn mùa…
Giấc mơ đêm cứ hiện về chập chờn khuấy khỏa. Người phụ nữ ăn mặc rách rưới. Thằng bé gầy trơ xương. Những tên lính cười khả ố. Giấc mơ ấy rực rỡ mấy quầng hoa đỏ thẫm. Bụi hoa mọc trên tường. Bụi hoa gieo xuống đất. Chúng đánh thức tôi bằng mồ hôi ướt đẫm. Trái tim đau nhức như ngàn gai đâm chọc. Đêm dài miên man. Biết khi nào trời mới lại sáng?
Đợt này, mẹ gọi điện nói bố đau nhiều hơn. Bà nhắc tôi hôm nào xin nghỉ phép về quê cho ông đi khám xem sao. Gần tới tháng bảy, những chuyến đi lại đang chờ đợi bố. Ở nơi nào trên miền núi Tây Bắc xa xôi? Liệu có làng Pua không?
Truyện ngắn: Lê Ngọc
-----------------------
(Giải Nhất cuộc thi truyện ngắn Tuyên Quang 2022)
Gửi phản hồi
In bài viết