Đã hơn nửa thế kỷ kể từ những năm đầu tiên Bác Hồ “lẩy Kiều” khi chào mừng khách quốc tế, giờ đây tìm hiểu, đọc lại vẫn thấy phù hợp và đầy ý nghĩa, hàm chứa tầm nhìn xa, trông rộng với một sự am hiểu sâu sắc được kết tinh bởi tinh hoa văn hóa phương Đông và cả phương Tây...
Bác Hồ vận dụng Kiều để chào mừng các vị khách quốc tế, vừa để sử dụng nghệ thuật của một kiệt tác văn hóa Việt Nam - Truyện Kiều giới thiệu văn hóa Việt Nam với thế giới. Theo thống kê của các nhà nghiên cứu, từ năm 1957, khi tiếp đồng chí K.E. Vôrôsilốp Chủ tịch Xô Viết tối cao Liên bang Cộng hòa XHCN Xô Viết (gọi tắt là Liên Xô), đến những năm sau này, Bác Hồ có 9 lần “lẩy Kiều”, nhiều nhất là các năm 1957, 1963. Đó là chưa kể việc Bác sử dụng Kiều trong các bài báo mang tính đối ngoại, có tầm ảnh hưởng quốc tế lớn.
Cho đến nay, khi nói đến nghệ thuật “lẩy Kiều” của Bác Hồ, nhiều người vẫn luôn nhắc đến bài nói chuyện của Bác tại cuộc mít tinh chào mừng Tổng thống nước Cộng hòa Inđônesia Xu-các-nô, trong chuyến thăm Việt Nam năm 1959. Người nói: “Nước xa mà lòng không xa/Thật là bầu bạn, thật là anh em”. Nhớ lại trong câu thơ Kiều chỉ nói cái riêng, nghĩa hẹp, nhưng vận dụng bối cảnh này, Bác đã nói được cái chung của hai dân tộc, chuyển tải được những nội dung hoàn toàn mới, thắm tình hữu nghị hai nước.
Ngày chia tay, trong lời tiễn Tổng thống Xu-các-nô tại sân bay Gia Lâm, Bác Hồ đã hai lần “lẩy Kiều” với 6 câu rất hợp cảnh và lý thú, Người nói: “Cánh hồng bay bổng tuyệt vời/Trông mòn con mắt phương trời đăm đăm”. Rồi nhắc đến tình cảm lưu luyến của Nhân dân Việt Nam khi phải chia tay Tổng thống Xu-các-nô: “Nhớ nhung trong lúc chia tay/Tấm lòng lưu luyến cùng bay theo người/Người về Tổ quốc xa khơi/Chúc người thắng lợi, chúc người bình an”. Thật trọn vẹn, nghĩa tình.
Trong “Lời phát biểu đón tiếp đồng chí Nô-vốt-ny, Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Tiệp Khắc, năm 1963, Bác Hồ cũng đã vận dụng Kiều: “Trải bao tháng đợi, năm chờ/Chờ người khách quý bao giờ đến thăm”. Và khi được gặp gỡ thì: “Xuân này, xuân lại thêm xuân/Nước non xa, anh em gần, vui thật là vui” đã diễn tả được tình cảm chân thành khi đón tiếp khách quý.
Trong mối quan hệ hữu nghị đặc biệt Việt Nam - Lào, năm 1963, khi tiếp đoàn đại biểu cao cấp của Lào, Bác Hồ đã đọc mấy vần thơ (phỏng Kiều), tâm huyết: “Bấy lâu cách trở quan hà/Từ nay Lào - Việt rất là gần nhau/Thương nhau mấy núi cũng trèo/Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua/Việt - Lào hai nước chúng ta/Tình sâu hơn nước Hồng Hà, Cửu Long”. Đó là sự khẳng định, lợi căn dặn, mong ước và là thông điệp cho mai sau.
Năm 1963, trong lời chào mừng Phó Chủ tịch BCH Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Lưu Thiếu Kỳ, Bác Hồ đã đọc hai câu Kiều: “Đến bây giờ mới thấy đây/Mà lòng đã chắc những ngày một hai”. Rồi Bác khẳng định: “Mối tình thắm thiết Việt - Hoa/Vừa là đồng chí, vừa là anh em”, rất hợp người, hợp cảnh. Ngày đoàn lên đường về nước, khi chia tay, Bác Hồ đã vận dụng “lẩy Kiều” mới lý thú và ý nghĩa: “Tiễn đưa, chẳng muốn chia tay/Bạn về cố quốc nước mây nghìn trùng/Cầm tay lòng lại dặn lòng/Cùng nhau giương ngọn cờ hồng Mác-Lê”. Có thể coi đây là một trong những lần “lẩy Kiều” thành công nhất và có sức lôi cuốn, hấp dẫn người nghe.
Từ vận dụng 6 câu Kiều ở các trường đoạn khác nhau, như câu thứ 3.187: “Thoắt thôi tay lại cầm tay/Càng yêu vì nết, càng say vì tình”, lại về câu thứ 1.787: “Bốn phương mây trắng một màu/Trông vời cố quốc biết đâu là nhà”, sau đó trở lại câu thứ 1.503: “Cầm tay dài ngắn thở than/Chia phối ngừng chén, hợp tan nghẹn lời” đã nói lên tất cả nỗi niềm của người trong cuộc. Và từ câu thơ tưởng như rất riêng ấy đã dặn dò, nói được cái chung để cùng quyết tâm phấn đấu. Phải là người thực sự am hiểu sâu sắc nội dung, câu chữ trong từng trường đoạn của 3.254 câu thơ trong Truyện Kiều của Đại thi hào Nguyễn Du thì mới vận dụng được một cách tuyệt vời đến như vậy.
Cách “lẩy Kiều” của Bác Hồ không chỉ đạt đỉnh cao của nghệ thuật mà còn đem lại “không khí” văn chương gần gũi, thân mật, thú vị, tăng hiệu quả ngoại giao. Việc “lẩy Kiều”, “tập Kiều”, “phỏng Kiều” trong đón tiếp các nguyên thủ quốc gia, các vị khách quốc tế của Người vừa kế thừa, phát huy giá trị bản sắc văn hóa truyền thống Việt Nam, vừa thể hiện niềm tự hào, tự tôn dân tộc, đồng thời giới thiệu, nâng tầm văn hóa Việt Nam với thế giới.
Việt Thanh
(Sưu tầm, nghiên cứu)
Gửi phản hồi
In bài viết