Truyện ngắn trong lòng bàn tay - giống như cách gọi của chính thể loại mà tác giả lựa chọn, là một thể loại tác phẩm văn học có đặc điểm là ngắn, ngắn đến nỗi có thể gói trọn trong lòng bàn tay.
Trước Kawabata và đồng thời với ông, đã có nhiều người viết những truyện rất ngắn từ một vài hàng đến mươi hàng hay một hai trang. Tuy nhiên, Kawabata mới là người nổi bật hơn cả trong lãnh vực truyện ngắn trong lòng bàn tay. Ông sáng tác nhiều nhất và đã tạo một văn phong đặc biệt cho nó.
Truyện ngắn trong lòng bàn tay của Kawabata đứng giữa biên giới của thơ, tùy bút, hồi ký và truyện ngắn. Nhiều khi ta thấy ông như người kể lại những gì xảy ra trong một giấc mơ. Thay vì làm thơ, ông lồng khung những bài thơ định viết trong tác phẩm văn xuôi. Thể loại văn chương này thích hợp với bản tính ông, một con người mơ mộng, tinh tế và nhạy cảm. Thêm vào đó, khuynh hướng mới duy tâm lý trong văn học mà ông là một người chủ trương ở Nhật cũng phù hợp với lối hành văn và nội dung của các tác phẩm ấy.
105 tác phẩm trong Truyện ngắn trong lòng bàn tay chủ yếu nói về tình yêu, nhưng chủ đề tình yêu của ông rất khác với chủ đề tình yêu trong văn chương truyền thống. Kawabata không nhấn mạnh bầu không khí vui vẻ kéo dài của tình yêu, cũng không nhấn mạnh sự sống chết và kết thúc bi thảm của tình yêu, mà thể hiện một tình yêu nhẹ nhàng và đa cảm. Nhiều mối tình trong tác phẩm của ông, các nhân vật từ đầu đến cuối chưa bao giờ dành cho nhau một lời yêu thương nào, tình cảm của đối phương dành cho nhau chỉ ở giai đoạn nhận thức lẫn nhau. Loại tình yêu này chỉ là một loại tình cảm cảm mến lẫn nhau, không có tình cảm biểu đạt, không có thề nguyền sống chết, cũng không có những lời yêu thương cuồng nhiệt, không có bốc đồng, không có phàn nàn và không có tiếc thương, tất cả lời nói và việc làm đều rất thờ ơ. Một tình yêu trong sáng và hững hờ, giữa cặp đôi không có vướng mắc phức tạp, cũng không có bi kịch tình yêu, mọi thứ diễn ra và kết thúc rất bình dị, nhưng lại vô cùng quyến rũ người đọc.
Yasunari Kawabata tự nhận mình là người được "rửa tội bằng văn học hiện đại phương Tây". Yasunari Kawabata vận dụng nhuần nhuyễn phân tâm học và kỹ thuật dòng ý thức để đi sâu vào thế giới nội tâm của nhân vật, đồng thời nghiên cứu các giá trị thẩm mỹ Nhật Bản, điều chỉnh mối quan hệ phức tạp giữa truyền thống và hiện đại, biến nó từ đối lập sang hài hòa.
Văn chương của Yasunari Kawabata không chỉ có tính đặc thù dân tộc mà còn có ý nghĩa phổ quát toàn thế giới. Bút pháp sáng tạo của Yasunari Kawabata đã vượt ra ngoài đất nước Nhật Bản, ảnh hưởng sâu rộng đến toàn thế giới. Điều này có ý nghĩa to lớn, giống như sự khai sáng thúc đẩy mọi người nhìn nhận lại văn hóa Phương Đông khi ông là tiểu thuyết gia Nhật Bản đầu tiên đoạt giải Nobel văn học vào năm 1968.
Gửi phản hồi
In bài viết